
Người Việt vốn coi uống trà như thú tao nhã, pha trà để uống hoặc
mời khách cũng chăm chút công phu. Sự công phu đó, trở thành thứ lễ
nghi mà ngày nay lớp trẻ không phải ai cũng biết. Uống trà nhằm đáp lại
lòng mến khách của chủ nhân, để bắt đầu tâm sự, một nỗi niềm ngổn ngang,
để bàn chuyện gia đình, xã hội, nhằm cảm nhận một tách trà hương vị của
đất trời, cây cỏ.
Các trà nhân từ xưa rất chú ý đến nghệ thuật thưởng trà với nhiều loại trà cụ (dụng cụ pha trà) cần thiết để làm sao cho người uống cũng có thể cảm nhận và thể nghiệm giống như các thiền sư. Dùng thìa gỗ múc trà cho vào ấm đất nung nhỏ, được gọi là “Ngọc diệp hồi cung”.
Các trà nhân từ xưa rất chú ý đến nghệ thuật thưởng trà với nhiều loại trà cụ (dụng cụ pha trà) cần thiết để làm sao cho người uống cũng có thể cảm nhận và thể nghiệm giống như các thiền sư. Dùng thìa gỗ múc trà cho vào ấm đất nung nhỏ, được gọi là “Ngọc diệp hồi cung”.

Người Việt vốn coi uống trà như thú tao nhã, pha trà để uống hoặc mời khách cũng chăm chút công phu.
Để có được chén trà
ngon thì bình trà và tách uống trà phải được làm nóng lên bằng nước sôi.
Trà cụ dùng để xúc trà, lấy bã trà đều bằng tre khô hoặc gỗ thơm. Khi
châm nước lần một gọi là “cao sơn trường thuỷ” rồi chắt ngay ra. Đây là
thao tác tráng trà nhằm loại hết bụi bẩn và cho trà khô kịp thấm không
nổi lềnh bềnh. Lần thứ hai đổ nước vào ấm gọi là “hạ sơn nhập thuỷ” nên
đổ nước cao, tràn miệng bình để khi đậy nắp lại, bụi trà tràn ra hết,
rồi dội nước sôi lên nắp để giữ nhiệt độ cao nhất cho ấm trà. Nước hai
chính là nước ngon nhất được tạo ra trong vòng 1-2 phút, có hương vị
đượm đà, thơm tho quyến rũ. Khi rót trà phải chuyên đều các chén sao cho
nồng độ trà như nhau bằng cách kê khít miệng chén lại và đưa vòi ấm
quay vòng. Cách phổ biến trong truyền thống là rót ra chén tống rồi chia
đều ra các “chén quân”. Cách này ngày nay ít dùng vì phần làm nguội
trà, phần hương trà phôi pha.
Dâng chén trà theo
đúng cách là ngón giữa phải đỡ lấy đáy chén, ngón chỏ và cái đỡ miệng
chén gọi là “Tam long giá ngọc”. Người dâng trà và người nhận đều phải
cung kính cúi đầu. Trước khi uống, đưa chén trà sang tay trái, mắt nhìn
theo, sau đó đưa sang phải “du sơn lâm thuỷ”. Khi uống, cầm chén trà
quay lòng bàn tay vào trong, dâng chén trà lên sát mũi để thưởng thức
hương trà trước, sau đó tay che miệng nháp nháp từng ngụm nhỏ nhẹ. Tay
áo các quan lại phong kiến thường rất rộng cũng một phần vì lẽ dùng che
miệng khi uống trà là vậy. Che miệng khi ăn, uống, cười trong chèo,
tuồng, trong đời sống người Việt xưa chính là một hành vi văn hoá. Người
uống cũng phải chậm rãi mím miệng nuốt khẽ cho hương trà thoát ra đằng
mũi và đồng thời đọng trong cổ họng, nuốt tý nước bọt lần một, lần hai,
lần ba để cảm nhận.


Yêu cầu để có một ấm
trà ngon được “gói trọn” trong lời dạy truyền tụng của người
xưa: “Nhất thủy, nhì trà, ba pha, tứ ấm”.
Người trong Hoàng cung trước kia khi pha trà cho các ông vua, bà
hoàng rất cầu kỳ và công phu, phải hứng từng giọt sương trên búp sen vào
lúc chưa có ánh nắng. Còn các cụ xưa thường dùng nước mưa sẽ giúp cho
nước trà tăng thêm vị ngọt, sau khi uống sẽ thấy vị ngọt lưu lại nơi cổ
họng. Kỹ năng pha trà tùy theo kinh nghiệm bí quyết của mỗi người, tùy
vào chất lượng và hương vị của mỗi loại trà nên pha loại ấm nào. Trước
khi pha trà phải tráng ấm bằng nuớc sôi cho nóng trước rồi cho trà vào,
khi pha xong đậy nắp kín tiếp tục rót nước sôi từ trên nắp xuống như tắm
ấm để giữ nhiệt độ nóng trong ấm giúp cho các cánh trà được thấm đều.
Những người uống trà sành điệu miền Bắc thường uống trà không ướp hương,
vì như thế sẽ không còn hương vị thật của trà.
Nước ta có rất nhiều loại trà, trà nguyên thuỷ (còn gọi hậu vị)
là loại trà mộc không được ướp hương, người uống mới cảm nhận được
nguyên sơ. Loại trà thanh hương, được ướp với nhiều nguyên liệu khác
nhau. Nào trà sen, trà lài, trà sói...
Trà sen là thứ trà rất quý, rất ít người ướp đúng phương pháp.
Rót tách trà, hương sen dìu dịu, thơm mát, lan toả khắp phòng. Khi nước
đã nhạt rồi mà hương sen vẫn còn ngan ngát. Trà sen nên uống vào mùa hạ
mới cảm nhận hết được hương thơm của nó. Trà lài nên uống vào những đêm
thu thanh vắng.
Trà bạch ngọc, hoa ướp hương của 5 loại hoa trắng: lài, cúc trắng, bông bạch, mộc, ngọc lan. Ngoài ra còn những loại trà bổ dưỡng như mật ong, long nhãn, mật ong nhân sâm... Mỗi loại trà nên pha vào một ấm khác nhau. Trà mộc thì pha vào ấm gốm là thích hợp nhất, trà thanh hương thì pha vào ấm sứ mới dậy được mùi hương.
Trà bạch ngọc, hoa ướp hương của 5 loại hoa trắng: lài, cúc trắng, bông bạch, mộc, ngọc lan. Ngoài ra còn những loại trà bổ dưỡng như mật ong, long nhãn, mật ong nhân sâm... Mỗi loại trà nên pha vào một ấm khác nhau. Trà mộc thì pha vào ấm gốm là thích hợp nhất, trà thanh hương thì pha vào ấm sứ mới dậy được mùi hương.
Uống trà phải dùng chung nhỏ và tuỳ theo tiết trời, bốn mùa:
Xuân-hạ-thu-đông, mỗi mùa một kiểu chung thích hợp. Uống trà có thể là
độc ẩm (uống một mình) đối ẩm (hai người) quần ẩm (nhiều người), nên
danh ngôn có câu: “Trà tam rượu tứ”. Nhưng chắc chắn một điều, không
gian của những cuộc trà không bao giờ ồn ào náo nhiệt như uống rượu,
uống bia, không mùi tạp như mùi xào nấu, mùi bánh trái và những hương
thơm các thứ hoa, ngoại trừ hoa lan và thuỷ tiên, phải chọn chỗ thanh
lịch, không gây phiền phức cho thị giác, thính giác... Các bậc sành
điệu, buổi sớm uống trà xong mới đốt trầm hương ngồi trong nhà đọc sách.



Cách pha trà của các bậc sành điệu thật văn hoá và khoa học. Ấm
pha trà bé, lại không dùng nước đang sôi, đổ nước làm hai hoặc ba lần để
trà khỏi bị luộc chín – chất trà cứ ngấm dần ra màu vàng sóng sánh.
Uống vào cảm thấy hương thơm xông lên tận não bộ, nghe vị ngọt của trà
thắm trong cổ họng, khà một tiếng nhỏ khen trà ngon cũng là thể hiện
niềm biết ơn sâu xa người mời trà.
Phong cách uống trà của người Việt Nam cũng rất đa dạng không
theo chuẩn mực nào, biểu hiện đầy đủ khía cạnh ngôn ngữ sâu xa trong văn
hóa ứng xử đầy tính sáng tạo của người pha trà và người được mời uống
trà đã được nâng lên bậc nghệ thuật pha trà và văn hóa uống trà. Những
người hiểu biết về văn hóa uống trà, nghệ thuật pha trà của người Việt
Nam thì không bao giờ chịu ảnh hưởng chút nào của người Trung Quốc, Hàn
Quốc, càng không giống trà đạo của người Nhật Bản.
Ngày tết hay trong sinh hoạt thường nhật, đến bất cứ gia đình nào
hay cơ quan nào chỉ cần nhìn cung cách chủ nhà pha trà, rót trà, mời
trà là có thể thấy được người đó có sành văn hóa uống trà hay không,
chưa nói đến nghệ thuật pha trà.
… Văn hoá trà gắn kết với đời sống và tâm linh người Việt. Nhấp
tách trà thơm lừng, con người sảng khoái gần gũi với nhau hơn, đúng là
bản sắc đậm đà đã tồn tại qua mấy ngàn năm toả hương trong sự giao hoà
của thiên nhiên và đất trời.
Theo: Cinet
Subscribe by Email
Follow Updates Articles from This Blog via Email
No Comments